Phạm Phương Liên
Fan Cứng
Lăng vua Tự Đức, được gọi là Khiêm Lăng, có thể xem là một trong những công trình đẹp nhất của thời nhà Nguyễn, là nơi yên nghỉ của vua Tự Đức – một ông vua có tài về thi phú.
Khiêm Lăng được nhà vua cho xây dựng từ rất sớm, với mục đích cũng là nơi để vua đến để tìm giây phút thư giãn sau những căng thẳng nơi triều chính, là một nơi nghỉ dưỡng nhàn nhã khi vua còn sống trước khi trở thành nơi an nghỉ khi vua băng hà. Vì vậy, Khiêm Lăng được xây dựng như một nhà vườn quy mô lớn, bao bọc bởi một không gian xanh mượt của núi rừng cây cỏ, phù hợp với một tâm hồn thi sĩ lãng mạn.
Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, là vị vua có thời gian tại vị lâu nhất trong 13 vị vua triều Nguyễn. Là con trai thứ của vua Thiệu Trì, việc lên ngôi của Hồng Nhậm đã làm cho người anh cả là Hồng Bảo phẫn nộ và có ý định nổi loạn.
Thời vua Tự Đức, nước Đại Nam đã trải qua những biến cố lớn: triều đình lục đục, anh em bất hòa, đặc biệt là sự xâm lăng của người Pháp. Tính cách của vua Tự Đức có phần tài tử, giống như một người thi sĩ thích cỏ cây hoa lá, không quyết đoán và quyết liệt như các đời vua trước, vì vậy việc triều chính đối với vị vua này có những áp lực nặng nề nên đã cho xây Khiêm Lăng từ rất sớm để thành nơi nghỉ ngơi, tiêu sầu. Tuy nhiên, quá trình xây lăng cũng không được suôn sẻ.
Do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, dân phu xây lăng đã làm cuộc nổi loạn Chày Vôi năm 1866, với danh nghĩa tôn phù Đinh Đạo (con của Hồng Bảo, cháu ruột vua Tự Đức) là dòng chính tông để lên ngôi vua. Cuộc nổi loạn bị dẹp bỏ nhanh chóng, nhà vua muốn tạ tội trước các dân phu nên đặt tên công trình này là Khiêm Cung (chữ khiêm trong nghĩa khiêm tốn), đồng thời viết một bài biểu để trần tình. Năm 1873, Khiêm Cung được hoàn thành, đến năm 1883, nhà vua băng hà, Khiêm Cung đổi thành Khiêm Lăng.
Khiêm Lăng được xây dựng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng (nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế), nằm giữa một rừng thông bát ngát.
Tổng thể kiến trúc Lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha, gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành từng cụm trên những thế đất cao, thấp hơn nhau chừng 10m. Bố cục khu lăng gồm hai phần chính, trên hai trục song song với nhau lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh Đường. Các công trình trong Lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm đặt tên gọi.
Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn, gồm hai phần chính: khu vực tẩm điện và lăng mộ. Hai phần này được bố trí song song với nhau, tiền án là núi Giáng Khiêm, hậu chẩm là núi Dương Xuân.
Qua cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước.
Khiêm Cung môn và Hồ Lưu Khiêm
Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách… Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.
Đi tiếp ba bậc tam cấp bằng đá thanh dẫn vào Khiêm Cung môn, là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu.
điện Hòa Khiêm
Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức.
Điện Lương Khiêm
Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường – nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm đường để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam còn lại, bên cạnh 3 nhà hát hát được các vua Nguyễn xây dựng.
Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm viện và Y Khiêm viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm viện, Dung Khiêm viện và vườn nuôi nai của vua.
Bái Đình
Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn vào năm 1871.
Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của vua Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.
Xem tiếp...
Khiêm Lăng được nhà vua cho xây dựng từ rất sớm, với mục đích cũng là nơi để vua đến để tìm giây phút thư giãn sau những căng thẳng nơi triều chính, là một nơi nghỉ dưỡng nhàn nhã khi vua còn sống trước khi trở thành nơi an nghỉ khi vua băng hà. Vì vậy, Khiêm Lăng được xây dựng như một nhà vườn quy mô lớn, bao bọc bởi một không gian xanh mượt của núi rừng cây cỏ, phù hợp với một tâm hồn thi sĩ lãng mạn.
Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, là vị vua có thời gian tại vị lâu nhất trong 13 vị vua triều Nguyễn. Là con trai thứ của vua Thiệu Trì, việc lên ngôi của Hồng Nhậm đã làm cho người anh cả là Hồng Bảo phẫn nộ và có ý định nổi loạn.
Thời vua Tự Đức, nước Đại Nam đã trải qua những biến cố lớn: triều đình lục đục, anh em bất hòa, đặc biệt là sự xâm lăng của người Pháp. Tính cách của vua Tự Đức có phần tài tử, giống như một người thi sĩ thích cỏ cây hoa lá, không quyết đoán và quyết liệt như các đời vua trước, vì vậy việc triều chính đối với vị vua này có những áp lực nặng nề nên đã cho xây Khiêm Lăng từ rất sớm để thành nơi nghỉ ngơi, tiêu sầu. Tuy nhiên, quá trình xây lăng cũng không được suôn sẻ.
Do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, dân phu xây lăng đã làm cuộc nổi loạn Chày Vôi năm 1866, với danh nghĩa tôn phù Đinh Đạo (con của Hồng Bảo, cháu ruột vua Tự Đức) là dòng chính tông để lên ngôi vua. Cuộc nổi loạn bị dẹp bỏ nhanh chóng, nhà vua muốn tạ tội trước các dân phu nên đặt tên công trình này là Khiêm Cung (chữ khiêm trong nghĩa khiêm tốn), đồng thời viết một bài biểu để trần tình. Năm 1873, Khiêm Cung được hoàn thành, đến năm 1883, nhà vua băng hà, Khiêm Cung đổi thành Khiêm Lăng.
Khiêm Lăng được xây dựng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng (nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế), nằm giữa một rừng thông bát ngát.
Tổng thể kiến trúc Lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha, gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành từng cụm trên những thế đất cao, thấp hơn nhau chừng 10m. Bố cục khu lăng gồm hai phần chính, trên hai trục song song với nhau lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh Đường. Các công trình trong Lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm đặt tên gọi.
Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn, gồm hai phần chính: khu vực tẩm điện và lăng mộ. Hai phần này được bố trí song song với nhau, tiền án là núi Giáng Khiêm, hậu chẩm là núi Dương Xuân.
Qua cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước.
Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách… Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.
Đi tiếp ba bậc tam cấp bằng đá thanh dẫn vào Khiêm Cung môn, là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu.
Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức.
Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường – nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm đường để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam còn lại, bên cạnh 3 nhà hát hát được các vua Nguyễn xây dựng.
Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm viện và Y Khiêm viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm viện, Dung Khiêm viện và vườn nuôi nai của vua.
Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn vào năm 1871.
Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của vua Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.
Xem tiếp...