Phạm Phương Liên
Fan Cứng
Nếu không có gì thay đổi, nửa đầu năm nay, Unesco sẽ công nhận loại hình Nghệ thuật đờn ca tài tử (ĐCTT) là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (ngày 31/3/2011, Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia đã đệ trình hồ sơ Nghệ thuật đờn ca tài tử lên Unesco). Đây không chỉ là sự ghi nhận và tri ân của thế hệ hôm nay đối với công ơn các bậc tiền nhân khai hoang mở cõi, nó còn đáp ứng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng người dân trên mảnh đất phương Nam mong muốn được tự hào về những giá trị văn hóa đặc sắc của mình.
NGHỆ THUẬT ĐỜN CA DÂN GIAN
Lần theo tư liệu của các nhà nghiên cứu văn hóa phương Nam, đến nay ĐCTT Nam bộ có quá trình phát triển trên 100 năm. Con số này thật nhỏ so với lịch sử âm nhạc của một quốc gia đã có tuổi hàng ngàn năm. Tuy vậy, loại hình nghệ thuật này đã có một bước phát triển đáng khâm phục. Theo cố học giả Vương Hồng Sển, xưa kia ở Nam bộ khi tiến hành tang lễ, sau buổi tế hoặc tụng kinh, thầy chùa và thầy nhạc trong dàn nhạc lễ thường yêu cầu gia chủ nấu cháo trắng ăn để thức sáng đêm, nhân đó họ hòa đàn tập dượt cho khỏi buồn ngủ. Từ đó hình thành thói quen, cứ hễ mỗi khi nhà ai có quan - hôn - tang - tế đều mời ban nhạc tới chơi rôm rả. Thói quen này dần hình thành “phong trào đờn cây”, tiền thân của ĐCTT sau này.
Còn theo GS.TS Trần Văn Khê, ĐCTT là một thể loại âm nhạc nghiệp dư, có nguồn gốc từ nhạc cung đình Huế, cho dù bài bản và kỹ thuật diễn tấu nhạc cụ khác nhau đôi chút. Điều đó có nghĩa hồn nhạc truyền thống của Huế đã truyền vào loại hình âm nhạc này. Ban đầu các nhạc sĩ ĐCTT không biểu diễn để kiếm sống mà họ chơi với mục đích giải trí cho chính họ hoặc mua vui cho người khác, đây cũng là lý do người ta gọi là âm nhạc tài tử. Ở khắp Nam bộ, nhất là các tỉnh miền Tây, đâu đâu cũng có thể nghe được tiếng ĐCTT. Trên những chiếc ghe bầu xuôi ngược mưu sinh, hoặc buổi tối rảnh việc, trên chiếc chiếu trải trước sân nhà. Đôi lúc trong đám tiệc, ma chay… của người hàng xóm, chủ, khách tất bật việc nhà nhưng cũng ngừng việc, ngưng chuyện trò để nghe ĐCTT. Đôi khi những người bạn đến nhà chơi, sau câu chào hỏi thì với tay lấy cây đàn, dạo vài câu và cuộc hòa đờn giữa họ lặng lẽ diễn ra, hết bài này qua bài khác, hết lớp này qua lớp khác. Không một lời trao đổi nhưng họ hiểu nhau đang buồn hay vui, đang có tâm sự gì, họ chia sẻ với nhau bằng tiếng đàn.
Vào những năm 1930, ĐCTT được các hãng sản xuất đĩa nhựa trong và ngoài nước như: Việt Hải, Hồng Hoa, BéKa… thu và phát hành rộng khắp miền Nam. Những danh ca, danh cầm được người yêu nhạc biết đến cũng nhờ vào cách phổ biến này. Những bài bản lúc ấy không chỉ gồm 20 bài tổ mà còn có một số bản vọng cổ (nhịp 8, nhịp 16…). Nhạc giới thường nhắc đến băng Nam Bình I & II do nhạc sư Vĩnh Bảo biên tập và diễn tấu. Đây chính là may mắn cho hậu thế vì còn giữ được tiếng đờn tài hoa, ngẫu hứng của nhiều thế hệ nghệ sĩ, nhạc sĩ tài tử lừng danh. Những nghệ sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng trong làng đĩa nhựa khi ấy có Chín Kỳ (Nguyễn Văn Kỳ), Tư Nghi (Phạm Văn Nghi), Bảy Hàm (Trương Văn Đệ), Sáu Quý (Nguyễn Thế Quý)…Về ca có các nghệ sĩ Năm Nghĩa, Hồng Châu, Tám Thưa, Út Trà Ôn, Bảy Cao, Sáu Thoàng, Hai Đá, Năm Cần Thơ, Bạch Huệ…
THÚ CHƠI TAO NHÃ
Theo GS.TS TrầnVăn Khê: Trước khi vào bản, thuộc hơi nào, nhạc công ĐCTT luôn có câu “rao” theo hơi đó. Câu “rao” theo truyền thống miền Nam khác hẳn so với những bài “dạo” của miền Trung. Bài “dạo” miền Trung có nét nhạc cố định, trước khi vào bài thì đờn những câu “dạo” đã học theo thầy. Còn câu “rao” miền Nam phóng túng hơn nhiều. Mỗi người thầy có một cách “rao”, lúc đầu dạy thì học trò đờn theo thầy, nhưng khi học trò đạt đến trình độ nghệ thuật nhất định, thầy cho phép học trò sáng tạo những câu “rao” cho riêng mình. Người đờn khi bắt đầu “rao”, một mặt dẫn người nghe đi vào làng điệu, vào hơi bản đờn. Đây cũng là lúc thử cây đờn có phím nào lệch không, dây đàn cứng quá hay mềm quá không, để lúc biểu diễn nhờ “chữ nhấn” mà làm cho tiếng nhạc hoàn chỉnh hơn. Trong lúc “rao” người đờn có thể đem ra thể nghiệm những câu “rao” mình vừa sáng tác có được thính giả tán thưởng hay không. Đây cũng là cách phô trương ngón đờn đặc biệt mà mình đã tìm tòi, học hỏi. Những bậc thầy trong ĐCTT thường có những cách “rao” lạ, phong phú, được người nghe thích hơn lúc vào bản. Nếu một người thưởng thức sành điệu, nghe thoáng qua câu “rao” có thể biết được tánh tình của người đờn. Có tiếng “rao” thanh tao, đài các, những cũng có tiếng “rao” xấc xược, ô trọc, tục tằng…
Một buổi ĐCTT thường không theo một chương trình sắp đặt trước. Anh em gặp nhau cao hứng, muốn đờn bản gì thì tất cả anh em đồng ý hòa với nhau. Vì họ xem đấy là cuộc chơi chứ không phải một chương trình nghệ thuật để giới thiệu cho quần chúng, nên vấn đề trang trí sân khấu, chỗ đàn hay trang phục ít được quan tâm. Nhưng gần đây, các chương trình phát hình muốn giới thiệu ĐCTT cho khán giả, hoặc các công ty du lịch muốn giới thiệu ĐCTT như một yếu tố nghệ thuật đặc biệt cho du khách, nên mới có việc khuyên nghệ sĩ ăn mặc chỉnh tề. Và cũng kể từ đó nghệ thuật ĐCTT mất hẳn chất tài tử không chuyên nghiệp, mà trở thành bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. GS.TS Trần Văn Khê từng kêu gọi nhạc giới đừng biến ĐCTT thành thứ vui chơi, làm cho đẹp mà mất đi cái chất của ĐCTT, làm thế tội nghiệp cho ĐCTT lắm! Thực tế, nếu tinh ý sẽ thấy ĐCTT gắn liền với nếp sống của nhiều tầng lớp trong xã hội ngày xưa. Rất nhiều nghệ sĩ là thợ hớt tóc, lái đò, công chức, bác sĩ, luật sư… nhưng họ luôn thể hiện tiếng đờn, câu hát hết sức mực thước mà nhạc giới tài tử đã gần như quy ước với nhau. Trong những qui ước của nhạc giới tài tử, đó là hệ thống bài bản. Hơn trăm năm hình thành, phát triển, ĐCTT Nam bộ có một hệ thống nhạc mục khá đầy đủ được phân chia theo hơi điệu, loại bài… như một hệ thống học thuật chuẩn mực cho nhạc giới.
Nếu có người hỏi một nghệ sĩ ĐCTT: Điểm cốt yếu nhất của nghệ thuật trình diễn nhạc tài tử là gì? Có lẽ họ sẽ nghe câu trả lời không ngần ngại đó là phong cách sáng tạo và ngẫu hứng trong biểu diễn. Không chỉ đàn ca sao cho đúng với tính chất, hơi điệu của bài, người nghệ sĩ tài tử còn phải biết thêm thắc, biến tấu ngẫu hứng sao cho bay bỗng, vì đối với nhạc tài tử, tính cố định sẽ làm mất tính tài tử. Một nốt đàn được thêm thắt, tô điểm đúng mức sẽ trở thành phong cách riêng của người nghệ sĩ. Nói rộng hơn, ngẫu hứng, ứng tấu vừa tạo phong cách nhạc sĩ, vừa là phong cách của thể loại nhạc tài tử. Nhưng nếu thêm thắt, tô điểm để cho câu nhạc có nhiều chữ đàn, để cho “rậm đám” hay xôm tụ thì không phải phong cách tài tử, bởi mỗi câu nhạc, mỗi chữ đàn, mỗi nét nhấn nhá, luyến láy… càng lão luyện trong nghề chơi thì tiếng đàn càng tinh tế, sang trọng, đặc sắc, đậm đà… Mỗi lần đàn ca là một lần tạo cho bài ca, bản đàn những hương vị khác nhau. Người đàn thêm chữ, chuyền ngón, thêm thắt hoa lá…sử dụng lối ca ngân dài hoặc ngắt chữ có thể chuyển giai điệu lên xuống theo lời ca hay sáng tạo riêng. Còn người nghe thường bàn đến lời ca có ăn với giọng đờn hay không, lối chơi đờn có đằm thắm, mẫu mực hay mùi mẫn… Chính vì lý do này mà cuộc chơi tài tử mới kéo dài thâu đêm suốt sáng mà chỉ quanh đi quẩn lại có một nhạc mục gồm 20 bài tổ và một số bài phổ biến nhưng người nghe lẫn người chơi vẫn không thấy chán.
Tài tử Minh Đức (TP.HCM) tâm sự: Ở Nam bộ, nhiều gia đình có truyền thống ĐCTT, anh nói mình không may mắn sinh ra trong những gia đình ấy, nhưng hình như trong máu thịt của người Nam bộ có sẵn chất men ĐCTT. Bởi vậy khi lớn lên anh “chết mê chết mệt” bởi những ngón đờn quyến rũ của thầy Ba Tu, thầy Huỳnh Khải…Rồi bị hớp hồn bởi giọng ca của nghệ nhân dân gian Bạch Huệ, nghệ sĩ Út Trà Ôn... Với ý chí và sự đam mê tôi miệt mài trong trường lớp và cả “tầm sư học đạo” để rồi giờ đây người ta quen gọi tôi là nghệ sĩ Minh Đức. Anh nhớ có lần NSƯT Thanh Tòng, nhận xét: “ Thời trước nghệ sĩ coi mình là một bông hoa trong vườn nghệ thuật, nên luôn có ý thức rèn luyện để làm sao cho mình lâu tàn và hương ngày càng tỏa xa. Còn ngày nay, lớp trẻ dường như yêu thích ánh hào quang của nghề hơn là bản thân nghề. Chính vì vậy có nhiều ngôi sao vụt tắt rất nhanh”. Mỗi khi nghĩ đến điều này anh bảo thật buồn!
Bài, ảnh: Văn Cường
Box: GS.TS. Trần Văn Khê: Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã có 6 di sản văn hóa phi vật thể được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đó là Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Ca trù và Hội Giống ở đền Phù Đổng. Trong số 6 di sản, có 4 di sản tiêu biểu ở miền Bắc, 2 di sản thuộc miền Trung và Tây Nguyên. Riêng miền Nam chưa có một di sản văn hóa phi vật thể nào cho riêng mình. Có thể nói điều này chưa tương xứng với tầm vóc và bề dày văn hóa, lịch sử của vùng đất luôn có những sáng tạo và để lại những giá trị văn hóa độc đáo, đặc biệt nhất là loại hình nghệ thuật đờn ca tài tử.
Xem tiếp...
NGHỆ THUẬT ĐỜN CA DÂN GIAN
Lần theo tư liệu của các nhà nghiên cứu văn hóa phương Nam, đến nay ĐCTT Nam bộ có quá trình phát triển trên 100 năm. Con số này thật nhỏ so với lịch sử âm nhạc của một quốc gia đã có tuổi hàng ngàn năm. Tuy vậy, loại hình nghệ thuật này đã có một bước phát triển đáng khâm phục. Theo cố học giả Vương Hồng Sển, xưa kia ở Nam bộ khi tiến hành tang lễ, sau buổi tế hoặc tụng kinh, thầy chùa và thầy nhạc trong dàn nhạc lễ thường yêu cầu gia chủ nấu cháo trắng ăn để thức sáng đêm, nhân đó họ hòa đàn tập dượt cho khỏi buồn ngủ. Từ đó hình thành thói quen, cứ hễ mỗi khi nhà ai có quan - hôn - tang - tế đều mời ban nhạc tới chơi rôm rả. Thói quen này dần hình thành “phong trào đờn cây”, tiền thân của ĐCTT sau này.
Còn theo GS.TS Trần Văn Khê, ĐCTT là một thể loại âm nhạc nghiệp dư, có nguồn gốc từ nhạc cung đình Huế, cho dù bài bản và kỹ thuật diễn tấu nhạc cụ khác nhau đôi chút. Điều đó có nghĩa hồn nhạc truyền thống của Huế đã truyền vào loại hình âm nhạc này. Ban đầu các nhạc sĩ ĐCTT không biểu diễn để kiếm sống mà họ chơi với mục đích giải trí cho chính họ hoặc mua vui cho người khác, đây cũng là lý do người ta gọi là âm nhạc tài tử. Ở khắp Nam bộ, nhất là các tỉnh miền Tây, đâu đâu cũng có thể nghe được tiếng ĐCTT. Trên những chiếc ghe bầu xuôi ngược mưu sinh, hoặc buổi tối rảnh việc, trên chiếc chiếu trải trước sân nhà. Đôi lúc trong đám tiệc, ma chay… của người hàng xóm, chủ, khách tất bật việc nhà nhưng cũng ngừng việc, ngưng chuyện trò để nghe ĐCTT. Đôi khi những người bạn đến nhà chơi, sau câu chào hỏi thì với tay lấy cây đàn, dạo vài câu và cuộc hòa đờn giữa họ lặng lẽ diễn ra, hết bài này qua bài khác, hết lớp này qua lớp khác. Không một lời trao đổi nhưng họ hiểu nhau đang buồn hay vui, đang có tâm sự gì, họ chia sẻ với nhau bằng tiếng đàn.
Vào những năm 1930, ĐCTT được các hãng sản xuất đĩa nhựa trong và ngoài nước như: Việt Hải, Hồng Hoa, BéKa… thu và phát hành rộng khắp miền Nam. Những danh ca, danh cầm được người yêu nhạc biết đến cũng nhờ vào cách phổ biến này. Những bài bản lúc ấy không chỉ gồm 20 bài tổ mà còn có một số bản vọng cổ (nhịp 8, nhịp 16…). Nhạc giới thường nhắc đến băng Nam Bình I & II do nhạc sư Vĩnh Bảo biên tập và diễn tấu. Đây chính là may mắn cho hậu thế vì còn giữ được tiếng đờn tài hoa, ngẫu hứng của nhiều thế hệ nghệ sĩ, nhạc sĩ tài tử lừng danh. Những nghệ sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng trong làng đĩa nhựa khi ấy có Chín Kỳ (Nguyễn Văn Kỳ), Tư Nghi (Phạm Văn Nghi), Bảy Hàm (Trương Văn Đệ), Sáu Quý (Nguyễn Thế Quý)…Về ca có các nghệ sĩ Năm Nghĩa, Hồng Châu, Tám Thưa, Út Trà Ôn, Bảy Cao, Sáu Thoàng, Hai Đá, Năm Cần Thơ, Bạch Huệ…
THÚ CHƠI TAO NHÃ
Theo GS.TS TrầnVăn Khê: Trước khi vào bản, thuộc hơi nào, nhạc công ĐCTT luôn có câu “rao” theo hơi đó. Câu “rao” theo truyền thống miền Nam khác hẳn so với những bài “dạo” của miền Trung. Bài “dạo” miền Trung có nét nhạc cố định, trước khi vào bài thì đờn những câu “dạo” đã học theo thầy. Còn câu “rao” miền Nam phóng túng hơn nhiều. Mỗi người thầy có một cách “rao”, lúc đầu dạy thì học trò đờn theo thầy, nhưng khi học trò đạt đến trình độ nghệ thuật nhất định, thầy cho phép học trò sáng tạo những câu “rao” cho riêng mình. Người đờn khi bắt đầu “rao”, một mặt dẫn người nghe đi vào làng điệu, vào hơi bản đờn. Đây cũng là lúc thử cây đờn có phím nào lệch không, dây đàn cứng quá hay mềm quá không, để lúc biểu diễn nhờ “chữ nhấn” mà làm cho tiếng nhạc hoàn chỉnh hơn. Trong lúc “rao” người đờn có thể đem ra thể nghiệm những câu “rao” mình vừa sáng tác có được thính giả tán thưởng hay không. Đây cũng là cách phô trương ngón đờn đặc biệt mà mình đã tìm tòi, học hỏi. Những bậc thầy trong ĐCTT thường có những cách “rao” lạ, phong phú, được người nghe thích hơn lúc vào bản. Nếu một người thưởng thức sành điệu, nghe thoáng qua câu “rao” có thể biết được tánh tình của người đờn. Có tiếng “rao” thanh tao, đài các, những cũng có tiếng “rao” xấc xược, ô trọc, tục tằng…
Một buổi ĐCTT thường không theo một chương trình sắp đặt trước. Anh em gặp nhau cao hứng, muốn đờn bản gì thì tất cả anh em đồng ý hòa với nhau. Vì họ xem đấy là cuộc chơi chứ không phải một chương trình nghệ thuật để giới thiệu cho quần chúng, nên vấn đề trang trí sân khấu, chỗ đàn hay trang phục ít được quan tâm. Nhưng gần đây, các chương trình phát hình muốn giới thiệu ĐCTT cho khán giả, hoặc các công ty du lịch muốn giới thiệu ĐCTT như một yếu tố nghệ thuật đặc biệt cho du khách, nên mới có việc khuyên nghệ sĩ ăn mặc chỉnh tề. Và cũng kể từ đó nghệ thuật ĐCTT mất hẳn chất tài tử không chuyên nghiệp, mà trở thành bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. GS.TS Trần Văn Khê từng kêu gọi nhạc giới đừng biến ĐCTT thành thứ vui chơi, làm cho đẹp mà mất đi cái chất của ĐCTT, làm thế tội nghiệp cho ĐCTT lắm! Thực tế, nếu tinh ý sẽ thấy ĐCTT gắn liền với nếp sống của nhiều tầng lớp trong xã hội ngày xưa. Rất nhiều nghệ sĩ là thợ hớt tóc, lái đò, công chức, bác sĩ, luật sư… nhưng họ luôn thể hiện tiếng đờn, câu hát hết sức mực thước mà nhạc giới tài tử đã gần như quy ước với nhau. Trong những qui ước của nhạc giới tài tử, đó là hệ thống bài bản. Hơn trăm năm hình thành, phát triển, ĐCTT Nam bộ có một hệ thống nhạc mục khá đầy đủ được phân chia theo hơi điệu, loại bài… như một hệ thống học thuật chuẩn mực cho nhạc giới.
Nếu có người hỏi một nghệ sĩ ĐCTT: Điểm cốt yếu nhất của nghệ thuật trình diễn nhạc tài tử là gì? Có lẽ họ sẽ nghe câu trả lời không ngần ngại đó là phong cách sáng tạo và ngẫu hứng trong biểu diễn. Không chỉ đàn ca sao cho đúng với tính chất, hơi điệu của bài, người nghệ sĩ tài tử còn phải biết thêm thắc, biến tấu ngẫu hứng sao cho bay bỗng, vì đối với nhạc tài tử, tính cố định sẽ làm mất tính tài tử. Một nốt đàn được thêm thắt, tô điểm đúng mức sẽ trở thành phong cách riêng của người nghệ sĩ. Nói rộng hơn, ngẫu hứng, ứng tấu vừa tạo phong cách nhạc sĩ, vừa là phong cách của thể loại nhạc tài tử. Nhưng nếu thêm thắt, tô điểm để cho câu nhạc có nhiều chữ đàn, để cho “rậm đám” hay xôm tụ thì không phải phong cách tài tử, bởi mỗi câu nhạc, mỗi chữ đàn, mỗi nét nhấn nhá, luyến láy… càng lão luyện trong nghề chơi thì tiếng đàn càng tinh tế, sang trọng, đặc sắc, đậm đà… Mỗi lần đàn ca là một lần tạo cho bài ca, bản đàn những hương vị khác nhau. Người đàn thêm chữ, chuyền ngón, thêm thắt hoa lá…sử dụng lối ca ngân dài hoặc ngắt chữ có thể chuyển giai điệu lên xuống theo lời ca hay sáng tạo riêng. Còn người nghe thường bàn đến lời ca có ăn với giọng đờn hay không, lối chơi đờn có đằm thắm, mẫu mực hay mùi mẫn… Chính vì lý do này mà cuộc chơi tài tử mới kéo dài thâu đêm suốt sáng mà chỉ quanh đi quẩn lại có một nhạc mục gồm 20 bài tổ và một số bài phổ biến nhưng người nghe lẫn người chơi vẫn không thấy chán.
Tài tử Minh Đức (TP.HCM) tâm sự: Ở Nam bộ, nhiều gia đình có truyền thống ĐCTT, anh nói mình không may mắn sinh ra trong những gia đình ấy, nhưng hình như trong máu thịt của người Nam bộ có sẵn chất men ĐCTT. Bởi vậy khi lớn lên anh “chết mê chết mệt” bởi những ngón đờn quyến rũ của thầy Ba Tu, thầy Huỳnh Khải…Rồi bị hớp hồn bởi giọng ca của nghệ nhân dân gian Bạch Huệ, nghệ sĩ Út Trà Ôn... Với ý chí và sự đam mê tôi miệt mài trong trường lớp và cả “tầm sư học đạo” để rồi giờ đây người ta quen gọi tôi là nghệ sĩ Minh Đức. Anh nhớ có lần NSƯT Thanh Tòng, nhận xét: “ Thời trước nghệ sĩ coi mình là một bông hoa trong vườn nghệ thuật, nên luôn có ý thức rèn luyện để làm sao cho mình lâu tàn và hương ngày càng tỏa xa. Còn ngày nay, lớp trẻ dường như yêu thích ánh hào quang của nghề hơn là bản thân nghề. Chính vì vậy có nhiều ngôi sao vụt tắt rất nhanh”. Mỗi khi nghĩ đến điều này anh bảo thật buồn!
Bài, ảnh: Văn Cường
Box: GS.TS. Trần Văn Khê: Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã có 6 di sản văn hóa phi vật thể được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đó là Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Ca trù và Hội Giống ở đền Phù Đổng. Trong số 6 di sản, có 4 di sản tiêu biểu ở miền Bắc, 2 di sản thuộc miền Trung và Tây Nguyên. Riêng miền Nam chưa có một di sản văn hóa phi vật thể nào cho riêng mình. Có thể nói điều này chưa tương xứng với tầm vóc và bề dày văn hóa, lịch sử của vùng đất luôn có những sáng tạo và để lại những giá trị văn hóa độc đáo, đặc biệt nhất là loại hình nghệ thuật đờn ca tài tử.
Xem tiếp...