MUA BÁN

Chuyên đề: Kinh nghiệm pháp lý, mua bán, sang nhượng nhà đất, Kinh nghiệm thiết kế thi công, trang trí, Kinh nghiệm chọn sản phẩm giá tốt, Kinh nghiệm về ô tô, xe máy, xe điện, Kinh nghiệm ăn uống, khu nghỉ dưỡng, Kinh nghiệm bảo quản, chế biến món ăn

Chia sẻ nhóm

Tổng Quan

Loại
KINH DOANH - MUA BÁN
Tổng thành viên
86
Tổng sự kiện
0
Tổng số thảo luận
22K
Tổng lượt xem
689K

HUYỀN THOẠI VỀ ĐOÀN TÀU CHỞ BÁU VẬT CỦA TƯỚNG YAMASHITA

Ở Việt Nam, ngay sau Thế chiến II kết thúc chính quyền khi đó đã ký nhiều thoả ước với công ty nước ngoài nhằm chủ tâm tìm kiếm đoàn tàu chở báu vật nói trên. Từ 1949 – 1975, đã có hơn 50 ngàn tấn sắt, nhôm, cao su… được vớt lên từ các chiến hạm, còn đoàn tàu chở báu vật trị giá hơn 100 tỷ bạc được thoả thuận ăn chia như kế hoạch trục vớt ban đầu được cho là chưa tìm thấy!

Phải chăng đoàn tàu chở báu vật vẫn còn nằm sâu trong lòng biển?


KỲ 1: BẢN PHÚC TRÌNH “TUYỆT MẬT” CỦA VĂN PHÒNG ĐẶC BIỆT PHỦ TỔNG THỐNG

Cuối năm 1944, phát xít Nhật bắt đầu thua trận. Tướng Yamashita – chỉ huy lục quân phát xít Nhật trong Thế chiến II (sau chiến tranh bị phe Đồng Minh kết tội tử hình) được lệnh đưa toàn bộ “chiến lợi phẩm” về Nhật để chuẩn bị cho kế hoạch hậu chiến. Trên hải trình áp tải không may đã bị quân Đồng Minh phát hiện, một số tàu chở báu vật bị đánh chìm, số còn lại được lệnh bí mật chôn giấu nhiều nơi ven biển. Mỗi nơi chôn giấu chỉ được phép lập một tấm bản đồ và giao cho chỉ huy cất giữ chờ khi có cơ hội quay lại khai thác. Kho báu Núi Tàu ở Bình Thuận như đồn đoán lâu nay là nằm trong kế hoạch chôn giấu trên, và, từng có một doanh nhân ở TP.HCM bỏ ra cả ngàn cây vàng để dò tìm, khai thác gần 20 năm nhưng thất bại.

ĐOÀN TÀU CHỞ BÁU VẬT HƠN TRĂM TỶ BẠC

Trung tuần tháng 1 – 1964, một người cũ của Ngô Đình Diệm là Tổng thư ký Phủ tổng thống Cao Đình Tiêu đã âm thầm chấp bút và trao tận tay cho trung tướng Chủ tịch hội đồng nội các chiến tranh Dương Văn Minh một bản phúc trình đặc biệt đóng dấu “tuyệt mật” dài 7 trang giấy A.4. Để lấy lòng nhân vật đang ở đỉnh cao quyền lực như tướng Big Minh, bản phúc trình cho thấy đã cố gắng đề cập chi tiết về kế hoạch khai thác 83 tàu chiến của phát xít Nhật bị quân Đồng Minh đánh chìm ở hải phận Việt Nam. Bao gồm 64 chiếc chìm ở ngoài biển, 8 chiếc chìm ở sông và 11 chiếc chìm ở khu vực cảng Sài Gòn. Hầu hết số tàu chiến nói trên bị đánh chìm cùng ngày 17 – 1 – 1945, được xác định từ đèo Hải Vân trở vào Sài Gòn. Trong tổng số 83 chiếc tàu nói trên, có 57 chiếc được bản phúc trình khẳng định là có đầy đủ bản đồ vị trí, toạ độ, kinh độ, vĩ tuyến, độ chìm sâu của mỗi tàu. Kể cả những chi tiết được xem là bí mật bị chôn vùi cùng với xác tàu dưới lòng đại dương sâu thẳm như tên chiến hạm, tải trọng, đồ kim khí, quân khí, hàng hoá trên tàu cùng nhiều chi tiết khác thuộc về “chìa khoá” để khai thác đoàn tàu cũng được bản phúc trình đề cập cẩn trọng. Theo bản phúc trình, tất cả những bí mật trên đang nằm trong tay “người chấp bút” và sẵn sàng trực tiếp một lần nữa, đệ trình lên trung tướng Chủ tịch nếu được trung tướng ban cho đặc ân.

Cũng trong số 57 chiếc tàu được xác định chi tiết, bản phúc trình đặc biệt còn lưu ý đến một đoàn tàu 8 chiếc khác mà phát xít Nhật cướp của quân Anh ở Hương Cảng. Chỉ ít ngày sau đó đoàn tàu này chạy vào hải phận Việt Nam để về Nhật đã bị oanh tạc cơ của Đồng Minh đánh chìm dọc theo bờ biển từ Bình Định đến Vũng Tàu. Trong số này có 4 chiếc mang tên TANASAGO (tải trọng 851 tấn), HOMAN (1.100 tấn), SHINSHU (4.180 tấn), KENSHO (4.643 tấn) là quan trong nhất, vì trên tàu chở đầy những chiến lợi phẩm quí giá như vàng, bạc và kim cương. Tất cả được đóng thành những thùng gỗ, bên ngoài nẹp sắt, trị giá hơn 100 tỷ bạc. Vào thời điểm chấp bút bản phúc trình, người viết nói số tiền trên gần bằng 5 năm số thu ngân sách của chính quyền Sài Gòn hiện tại. Trong lúc chúng bị quân Đồng Minh dội bom trúng, chỉ huy đoàn tàu cho thả khói màu để tên phi công của Đồng Minh khó nhận ra vị trí chính xác để chụp ảnh.

Đáng lưu ý là trong đoàn tàu 8 chiếc còn có một chiếc chở 5 kg nhiên liệu chế tạo bom nguyên tử, kèm theo hoạ đồ và chương trình, kế hoạch chế tạo hoả tiễn V.1 & V.2 do Đức quốc xã bàn giao cho phát xít Nhật. Trong chiến dịch đòi xoá tên Luân Đôn trên bản đồ thế giới vào tháng 7 – 1944, Hitler đã sử dụng loại hoả tiễn này. Đây là vũ khí tấn công bí mật của Hitler, sự huỷ diệt của nó thập phần ghê gớm. Cuối bản phúc trình, người chấp bút đánh giá đây là “tài liệu quan trọng bậc nhất về an ninh quốc phòng” nếu, quốc gia nào sở hữu nó và hoàn thành được chương trình đó thì được xem là “bá chủ” vùng Đông Nam Á.

CÓ BAO NHIÊU TÀU CHIẾN BỊ CHÌM?

Ngoài các tàu chiến của Nhật bản phúc trình còn xác định thêm 16 tàu chiến của Pháp và 25 tàu chiến của quân Đồng Minh khác bị đánh chìm trong hải phận Việt Nam, nâng tổng số lên 124 chiếc. Trong số này có 2 chiến hạm của Pháp là Amiral Charner và Lamothe Picquet chìm ở xưởng Hoà Công (Pyrotechnie) thành Tuy Hạ (Đồng Nai). Sau Thế chiến II đã được Pháp trục vớt trong khoảng thời gian từ 1949 – 1951, bằng ngân sách đặc biệt khổng lồ. Trước đó, năm 1946, ngay khi quay trở lại Đông Dương người Pháp đã lập ra ngân sách vớt tàu và dùng chung cho toàn cõi Đông Dương, sau khi trục vớt xong hai chiến hạm thì ngân sách này đóng tài khoá vào 31 – 12 – 1951.

Hai năm sau đó, Pháp muốn nhập số tiền bán sắt, thép, đồng… vớt lên từ 16 tàu chiến vào ngân sách vớt tàu để tiếp tục trục vớt những chiến hạm khác, khai thông thuỷ lộ. Nhưng vì lúc đó “chế độ tay tư”: Pháp, Việt Nam, Campuchia và Lào đã bãi bỏ. Quốc gia Việt Nam khi ấy không chấp nhận, cho rằng sắt, thép, đồng… vớt lên từ những chiến hạm chìm trong hải phận Việt Nam thuộc quyền sở hữu của Quốc gia Việt Nam. Bộ Tài chánh Việt Nam dẫn Điều 14, khoản 1, đoạn 2 của Hiệp ước San Francisco mà Pháp và Việt Nam ký chung năm 1951: “Mỗi quốc gia Đồng Minh được quyền sai áp, thanh toán hay sử dụng các tài sản của phát xít Nhật hiện hữu trong khu vực thẩm quyền của quốc gia ấy”. Vào lúc Hiệp ước phê chuẩn thì xác những con tàu này đã nằm trong lòng hải phận Việt Nam. Chính vì vậy mà ngày 16 – 10 – 1953, chính phủ Việt Nam thông báo quan điểm trên cho Cao uỷ Pháp ở Đông Dương biết, đồng thời yêu cầu chuyển toàn bộ số tiền bán sắt, thép, đồng… vớt lên từ xác những con tàu chiến vào Ngân khố Việt Nam .

Cùng thời gian này, Bộ Công chánh đã gửi công thư cho Cao uỷ Pháp biết đã ký kết với hãng tàu Kitagawa của Nhật một khế ước thương mại (gọi là khế ước thứ nhất - NV), giao cho hãng này trục vớt 17 xác tàu chiến chìm ở vùng biển Vũng Tàu và trên sông Sài Gòn. Khế ước một lần nữa gián tiếp xác nhận quyền sở hữu của Việt Nam đối với các xác tàu chìm. Tuy nhiên, hãng Kitagawa đã không thi hành đầy đủ các nghĩa vụ ghi trong khế ước nên đến tháng 5 – 1957, Tổng thống Đệ I cộng hoà đã ra Nghị định 187 bãi bỏ khế ước I và tịch thu 360.000 đồng bạc tiền ký quỹ trục vớt, cùng với 10.000 USD tiền đảm bảo khởi công trục vớt vào ngày 11 – 6 – 1953. Đồng thời toà án Sài Gòn khi đó còn tuyên tịch thu các dụng cụ thi công trị giá 1.142.460 đồng bạc, bắt hãng này nộp phạt 1.895.375 đồng bạc cho Nha quan thuế Sài Gòn.

Mấy tháng sau, chính quyền Sài Gòn giao cho Bộ Công chánh xúc tiến gọi thầu quốc tế nhằm tiếp tục trục vớt xác những con tàu này. Hãng Kitagawa có đơn xin dự thầu nhưng không được chấp nhận, vì người có tiếng nói quyết định khi đó cho rằng hãng đã từng được giao và thực hiện không tới nơi tới chốn. Trong biên bản đấu thầu do Bộ trưởng Công chánh làm chủ tịch, cho thấy có 8 nhà thầu: Archimède Salvage (Ý), Nguyễn Văn Trương và Nhân Tích Đức, Trung Nam Công ty, Overseas Salvage Company (Hong Kong), Kanaya, Vitico Enterprise, Nguyễn Minh Chí, Nihon Kaiji Kogyo Co., tham gia đấu thầu 7 lô xác tàu chìm ở hải phận và giang phận Việt Nam. Theo nguyên tắc lúc đó, sau đấu thầu 50 ngày Hội đồng đấu thầu phải công bố kết quả trúng thầu trên công báo. Nhà thầu trúng thầu sẽ phải khởi công sau 45 ngày và hoàn thành trong 66 tháng. Tuy nhiên kết quả đấu thầu này sau đó không được tổng thống Diệm chấp thuận, vì ông ta còn trông chờ Chính phủ Nhật giải quyết xong vấn đề bồi thường chiến tranh rồi hẳn tính.

Thật ra ngay trong những vòng đàm phán sơ bộ về bồi thường chiến tranh vào năm 1952, hai vấn đề chính yếu được đưa ra bàn thảo là “thoả thuận bồi thường chiến tranh và kế hoạch trục vớt những chiến hạm bị quân Đồng Minh đánh chìm”. Phía chính quyền Sài Gòn vào thời điểm đó cũng đã cho thành lập Văn phòng đặc trách điều tra xác những con tàu này, đến thời Đệ II Cộng hoà Văn phòng đặc trách được nâng cấp lên thành Uỷ ban chuyên trách trực thuộc phủ tổng thống.

Vì sao cả Nhật và chính quyền Sài Gòn tỏ ra quan tâm quá mức đến công tác trục vớt những con tàu này?

Điều này không khó hiểu, ngoại trừ những kho báu huyền thoại được chôn giấu đâu đó trên những vùng đồi núi ven biển Miền Trung như những đồn đoán lâu nay, rõ nhất là kho báu Núi Tàu ở Bình Thuận được cho là chôn giấu 4.000 tấn vàng, từng có người dám bỏ ra cả ngàn cây vàng để đeo đuổi gần 20 năm nhưng vẫn chưa tìm thấy. Có người bảo đó là những “kho báu không có thật”. Song, kể từ năm 1956, lần đầu tiên sau Thế chiến II có sự xuất hiện của cựu sĩ quan người Nhật ở Việt Nam, với danh nghĩa là đi sưu tầm kỷ vật chiến tranh và lặn mò ngọc trai thì những lời đồn đoán về kho báu trên cạn hay dưới biển dần được giải mã. “Ông chủ” của kho báu Núi Tàu trước đây có lần nói với người viết, rằng ông đã từng gặp cựu sĩ quan người Nhật nói trên trong một bữa tiệc ở nhà một quan chức chính quyền Ngô Đình Diệm, cũng từ đây ông mới biết được thông tin “kho báu” Núi Tàu để rồi sau giải phóng ông bắt đầu tìm kiếm. Vậy cựu sĩ quan Nhật là ai? Có liên quan gì đến những kho báu huyền thoại của tướng Yamashita ở Châu Á nói chung, ở Việt Nam nói riêng? ./.

Kỳ Phương (còn nữa)

Kỳ 2 xem tiếp

Xem tiếp...
 
Top Bottom