Võ Thị Yến Linh
Fan Cứng
Không bị sa thải khi mang thai
Điều 137 Bộ luật Lao động 2019 nghiêm cấm người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Theo Điều 162 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nếu sa thải trái pháp luật đối với phụ nữ mang thai, người đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, người sử dụng lao động là cá nhân có thể bị phạt tiền 100-200 triệu đồng hoặc phạt tù 1-3 năm.
Trong thời gian hành kinh được nghỉ 30 phút/ngày
Theo quy định tại khoản 3 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, tính vào giờ làm việc và hưởng đủ lương theo hợp đồng lao động.
Số ngày có thời gian nghỉ trong thời gian hành kinh do hai bên thỏa thuận nhưng tối thiểu là 3 ngày làm việc/tháng.
Trường hợp không có nhu cầu nghỉ và được người sử dụng lao động đồng ý, người lao động sẽ được trả thêm tiền lương tương ứng với thời gian được nghỉ mà vẫn làm việc.
Nếu không cho lao động nữ nghỉ trong thời gian hành kinh nghỉ, người sử dụng lao động sẽ bị phạt 10-20 triệu đồng.
Được chuyển công việc nhẹ hơn khi mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi
Theo khoản 2 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai và có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Đồng thời, Điều 142 Bộ luật Lao động 2019 cũng quy định người sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm, nguy cơ, yêu cầu của công việc để người lao động lựa chọn và phải bảo đảm điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động theo quy định khi sử dụng họ làm công việc thuộc danh mục nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con.
Được hưởng bảo hiểm xã hội chế độ thai sản
Theo quy định tại Điều 32 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc đi khám thai 5 lần, mỗi lần 1 ngày. Trường hợp ở xa cơ sở khám, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai.
Khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý, lao động nữ được nghỉ việc tối đa 10 ngày nếu thai dưới 5 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 5 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên (theo Điều 33 Luật Bảo hiểm xã hội 2014).
Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Trường hợp sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng (theo Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2014).
Nuôi con dưới 12 tháng được nghỉ 60 phút/ngày
Khoản 4 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định, lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc để cho con bú, vắt, trữ sữa, nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.
Được lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ nếu doanh nghiệp sử dụng hơn 1.000 lao động nữ
Khoản 5 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định trường hợp người sử dụng lao động sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên phải lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc.
Đồng thời, khuyến khích người sử dụng lao động lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc, nhu cầu của lao động nữ và khả năng của người sử dụng lao động.
Quyền được tạm hoãn hợp đồng lao động khi mang thai
Theo quy định tại Điều 138 của Bộ luật Lao động 2019, lao động nữ mang thai có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền cho biết rằng việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi, được quyền tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Khi tạm hoãn hợp đồng, lao động nữ mang thai phải thông báo cho người sử dụng lao động và cung cấp xác nhận từ cơ sở khám chữa bệnh. Xác nhận này sẽ chứng minh rằng việc tiếp tục làm việc có thể gây hại cho sức khỏe của thai nhi.
Trong trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn được quyết định theo thỏa thuận giữa lao động nữ và người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, thời gian tạm hoãn tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định thời gian tạm nghỉ từ cơ sở khám chữa bệnh, hai bên sẽ thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Xem tiếp...
Điều 137 Bộ luật Lao động 2019 nghiêm cấm người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Theo Điều 162 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nếu sa thải trái pháp luật đối với phụ nữ mang thai, người đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, người sử dụng lao động là cá nhân có thể bị phạt tiền 100-200 triệu đồng hoặc phạt tù 1-3 năm.
Trong thời gian hành kinh được nghỉ 30 phút/ngày
Theo quy định tại khoản 3 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, tính vào giờ làm việc và hưởng đủ lương theo hợp đồng lao động.
Số ngày có thời gian nghỉ trong thời gian hành kinh do hai bên thỏa thuận nhưng tối thiểu là 3 ngày làm việc/tháng.
Trường hợp không có nhu cầu nghỉ và được người sử dụng lao động đồng ý, người lao động sẽ được trả thêm tiền lương tương ứng với thời gian được nghỉ mà vẫn làm việc.
Nếu không cho lao động nữ nghỉ trong thời gian hành kinh nghỉ, người sử dụng lao động sẽ bị phạt 10-20 triệu đồng.
Được chuyển công việc nhẹ hơn khi mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi
Theo khoản 2 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai và có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Đồng thời, Điều 142 Bộ luật Lao động 2019 cũng quy định người sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm, nguy cơ, yêu cầu của công việc để người lao động lựa chọn và phải bảo đảm điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động theo quy định khi sử dụng họ làm công việc thuộc danh mục nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con.
Được hưởng bảo hiểm xã hội chế độ thai sản
Theo quy định tại Điều 32 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc đi khám thai 5 lần, mỗi lần 1 ngày. Trường hợp ở xa cơ sở khám, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai.
Khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý, lao động nữ được nghỉ việc tối đa 10 ngày nếu thai dưới 5 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 5 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên (theo Điều 33 Luật Bảo hiểm xã hội 2014).
Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Trường hợp sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng (theo Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2014).
Nuôi con dưới 12 tháng được nghỉ 60 phút/ngày
Khoản 4 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định, lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc để cho con bú, vắt, trữ sữa, nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.
Được lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ nếu doanh nghiệp sử dụng hơn 1.000 lao động nữ
Khoản 5 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định trường hợp người sử dụng lao động sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên phải lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc.
Đồng thời, khuyến khích người sử dụng lao động lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc, nhu cầu của lao động nữ và khả năng của người sử dụng lao động.
Quyền được tạm hoãn hợp đồng lao động khi mang thai
Theo quy định tại Điều 138 của Bộ luật Lao động 2019, lao động nữ mang thai có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền cho biết rằng việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi, được quyền tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Khi tạm hoãn hợp đồng, lao động nữ mang thai phải thông báo cho người sử dụng lao động và cung cấp xác nhận từ cơ sở khám chữa bệnh. Xác nhận này sẽ chứng minh rằng việc tiếp tục làm việc có thể gây hại cho sức khỏe của thai nhi.
Trong trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn được quyết định theo thỏa thuận giữa lao động nữ và người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, thời gian tạm hoãn tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định thời gian tạm nghỉ từ cơ sở khám chữa bệnh, hai bên sẽ thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Xem tiếp...